Từ cách một từ được đổ nghĩa đến việc dịch khái niệm philanthropy sang tiếng Việt

Categorized as Đạo, ngữ dụng, tâm lý học nhận thức Tagged , ,

Cách một từ được đổ nghĩa

Tôi chưa tìm hiểu đủ vững về lý luận dịch thuật, nhưng qua những lần tôi tự ngẫm nghĩ về việc dịch thì tôi cảm thấy là mọi người sẽ có xu hướng muốn dịch những khái niệm ngành khoa học xã hội, nhân văn, triết học ra tiếng Việt hơn là mượn luôn từ nước ngoài, còn với những khái niệm ngành khoa học tự nhiên thì việc vay mượn từ nước ngoài không làm mình ngứa ngáy bằng. Tôi không chắc.

Với những từ mà ta không có truyền thống đủ lâu như ở phương Tây để mà sớm tìm được từ tương đương trong tiếng Việt, thì tôi nghĩ vấn đề ở đây không chỉ là tìm từ để dịch sao cho sát nghĩa mà cũng thuận tai, mà thực chất phải xem nó là xây dựng khái niệm mới trong tiếng Việt. Mà cũng lại theo những lần tôi tự ngẫm nghĩ và đọc lớt phớt về cách mà một từ được đổ nghĩa như thế nào, thì tôi nghĩ có thể đưa ra được một số quan sát sau:

Quan sát 1

  1. Một từ có 2 loại nghĩa: nghĩa mà từ đó thực sự được dùng và nghĩa mặt chữ. Khi ta nói đến “nghĩa của từ” là ta nói đến loại nghĩa thứ nhất
  2. Nghĩa mặt chữ không thay đổi theo thời gian, nhưng nghĩa thực sự được dùng thì thay đổi theo thời gian

Quan sát 2

  1. Nếu ta không biết được nghĩa thực sự được dùng thì ta sẽ dùng nghĩa mặt chữ, và sẽ dùng nó để suy đoán nghĩa thực sự được dùng
  2. Chiết tự là cách để có được nghĩa mặt chữ
  3. Người Việt do ít học từ Hán Việt nên việc đoán nghĩa mặt chữ không tốt lắm. Từ nào không hiểu thì bỏ qua coi như không có, từ nào đồng âm khác nghĩa thì chọn đại nghĩa dễ hiểu nhất

Quan sát 3

Nếu ta đã hiểu được nghĩa thực sự được dùng rồi thì ta mất khả năng nhận ra được nghĩa mặt chữ của nó. Chỉ khi nào ta buộc mình phải chú tâm vào nghĩa mặt chữ thì mới thấy lại được nó

Quan sát 4

  1. Gọi là “nghĩa thực sự được dùng” cũng không đúng. Chính xác phải là “nghĩa mà tôi dùng”. Trên lý thuyết thì mỗi người sẽ có một “nghĩa mà tôi dùng” khác nhau, nhưng trên thực tế thì không phải lúc nào nó cũng xảy ra
  2. Mỗi người đều có thiên hướng mặc định rằng “nghĩa mà tôi dùng” là “nghĩa mà ai cũng dùng”, “nghĩa thực sự được dùng”
  3. Thảo luận với nhau sẽ giúp cho “nghĩa mà tôi thực sự dùng” ở mỗi người được điều chỉnh, và giúp họ nhận ra rằng “nghĩa mà ai cũng dùng”, “nghĩa thực sự được dùng” chỉ là “nghĩa mà tôi dùng”

Quan sát 5

  1. Dù là loại nghĩa gì thì nó cũng đều là sự tổng hợp từ các nét nghĩa thành phần (còn gọi là các thành tố nghĩa, hay nghĩa tố)
  2. Thường ta có thể làm cho các nét nghĩa này độc lập với nhau
  3. Một số nét nghĩa là quan trọng hơn các nét nghĩa còn lại
  4. Một số nét nghĩa thường đi chung với nhau
  5. Bản thân các nét nghĩa này cũng được tạo thành từ các từ khác thôi, nhưng ta không phải lo lắng về nghĩa của những từ dùng để miêu ta các nét nghĩa này. Ta có thể yên tâm là ai cũng sẽ hiểu giống nhau

Quan sát 6

  1. Giả sử có từ A ta không biết nghĩa thực sự được dùng của nó, và phải đoán nó bằng nghĩa mặt chữ, rồi sau đó mới biết nghĩa thực sự được dùng. Ta sẽ dễ chấp nhận sự sai lệch giữa 2 loại nghĩa này nếu nó chỉ thiếu chứ không dư (nhiều khi là còn không nhận ra là chúng có sự sai lệch). Ví dụ, nghĩa mặt chữ của từ A có các nét nghĩa *1, *2, còn nghĩa thực sự được dùng có các nét nghĩa *1, *2, *3, *4. Ban đầu ta chỉ nghĩ là A chỉ có các nét nghĩa *1, *2, nhưng sau khi biết thêm được là nó có cả *3, *4 thì ta cũng chấp nhận dễ dàng. Nhưng nếu nghĩa mặt chữ của nó bao gồm *1, *5 thì ta sẽ rất thắc mắc tại sao. (Nhưng những người đã hiểu được nghĩa thực sự được dùng của nó rồi thì không còn thắc mắc này nữa — họ mất khả năng nhận ra nghĩa mặt chữ của nó)
  2. Ngoài cách đoán nghĩa thực sự được dùng dựa vào nghĩa mặt chữ, ta còn có thể đoán nghĩa bằng một từ khác. Cơ chế cũng tương tự như ở trên. Ví dụ, cho hai từ AB. A có các nét nghĩa *1, *2, *3. B có các nét nghĩa *1, *2, *3, *4. Nếu cả AB cũng thường xuất hiện trong cùng một bối cảnh thì mọi người cũng sẽ đoán là A có cả *4, và dần dà A cũng được bổ sung thêm *4.

Quan sát 7

Việc phải giải thích nghĩa thực sự được dùng sẽ tốn thời gian, và không phải lúc nào cũng làm được. Đặc biệt là khi người nghe đã lỡ đi đoán nghĩa thực sự được dùng của nó. Bị kẹt bởi sự khó hiểu đến từ sự sai lệch giữa nghĩa mặt chữ và nghĩa thực sự dùng, họ sẽ khó tiếp thu những ý tiếp theo ta muốn nói. Tốt nhất là đảm bảo họ hiểu đúng từ đó trước khi ta dùng từ đó.

Làm sao để tạo khái niệm mới?

Như vậy, nếu muốn tạo khái niệm mới thì tôi nghĩ quy trình sẽ là:

  1. Vét cạn các nét nghĩa, các cách dùng, các cách hiểu về nó
  2. Tìm những từ chứa đựng được càng nhiều nét nghĩa càng tốt

Ta hãy minh hoạ quy trình này bằng việc thử dịch từ philanthropy sang tiếng Việt.

Dịch từ philanthropy như thế nào?

Trước hết ta hãy liệt kê hết tất cả các nét nghĩa của từ philanthropy:

  • *làm một cách tự nguyện
  • *dựa trên tri thức
  • *giải quyết các vấn đề xã hội
  • *có tính bền vững và dài hạn
  • *xuất phát từ lòng thương người (thiện)

Trước đây có một số người đề xuất dịch những từ này như sau:

Nhìn chung những người làm trong lĩnh vực này tránh dùng từ từ thiện, vì cảm thấy nó có nét nghĩa *thường mang tính khẩn cấp, ngắn hạn mà philanthropy không có. Tuy nhiên họ vẫn không cảm thấy những cách dịch trên là chưa đạt, vì với nhiều người tiếp nhận họ vẫn hiểu hoạt động này không khác gì từ thiện.

Ta hãy biểu diễn tất cả các nét nghĩa này lên không gian nghĩa:

Dễ cảm thấy rằng nghĩa mặt chữ của nhân ái chỉ bao gồm *xuất phát từ lòng thương người (thiện) và không bao gồm những cái khác:

Cả phúc thiện cũng vậy:

Đối với thiện nguyện thì lại có thêm *làm một cách tự nguyện trong nghĩa mặt chữ:

Ở đây hãy giả định rằng nghĩa mặt chữ của các từ này đồng nhất với nghĩa thực sự được dùng của chúng.

Giờ hãy tạm xoá đi làm lại. Ta xét từ từ thiện. Nghĩa mặt chữ của nó cũng chỉ bao gồm *xuất phát từ lòng thương người (thiện) và không bao gồm những cái khác. Nhưng nghĩa thực sự được dùng của nó thì lại có:

  • *làm một cách tự nguyện
  • *giải quyết các vấn đề xã hội
  • *xuất phát từ lòng thương người (thiện)
  • *thường mang tính khẩn cấp, ngắn hạn

Ta hãy xem nó sẽ được biểu diễn thế nào:

Ta bật hết cả 4 từ từ thiệnnhân áithiện nguyệnphúc thiện này lên:

Ta thấy rằng nghĩa thực sự được dùng của từ thiện đã ôm hết tất cả nghĩa của các từ kia. Chính vì như vậy, nên nghĩa thực sự được dùng của chúng sẽ dần mở rộng ra cho bằng với từ thiện (quan sát 6b). Đây chính là nguyên do của sự chưa thoả mãn của nhiều người với những phương án dịch hiện tại. Để thoát khỏi cái bóng ma của từ thiện, ta cần tìm một từ nào có một nét nghĩa mà từ thiện không có (quan sát 6a).

Gọi X là cách dịch của philanthropy. Đây là X:

Bởi vì X chưa tồn tại trong tiếng Việt, nên tốt nhất khi tạo nó ta nên có càng nhiều nét nghĩa của X trên mặt chữ. Và để thoát khỏi cái bóng ma của từ thiện, nhất thiết trên mặt chữ đó phải thể hiện ngay được nét nghĩa *dựa trên tri thức hoặc *có tính bền vững và dài hạn.

Thấy rằng ta đã có thiện nguyện chứa được nhiều nét nghĩa trên mặt chữ nhất, ta có thể tạm gắn những nét nghĩa này trực tiếp vào thiện nguyện:

  • thiện nguyện dựa trên tri thức
  • thiện nguyện có tính bền vững và dài hạn

Mặc dù nghĩa mặt chữ của thiện nguyện dựa trên tri thức chưa bao hàm được hết tất cả những nghĩa thực sự được dùng của X, nhưng ít nhất nó đã thoát ra khỏi cái bóng ma của từ thiện. Và vì nghĩa mặt chữ của nó không chứa nét nghĩa nào mà X không có, nên việc đồng nhất nó với X sẽ dễ dàng được chấp nhận.

Ta có thể chỉnh sửa chúng thêm một chút cho gọn:

  • thiện nguyện tri thức
  • thiện nguyện bền vững

Đây chính là những đề xuất của tôi cho việc dịch philanthropy sang tiếng Việt.

Bạn có thể thảo luận hoặc xem những người khác thảo luận về cách dịch của từ này trong Nhóm chat cộng đồng của SNPO.

Khi một người đã chịu nhiều nỗi đau đến mức một ngày họ bàng hoàng kết luận rằng họ không còn khả năng để hy vọng thêm một lần nào nữa rồi, thì toàn bộ thế giới xung quanh họ sẽ rùng rùng biến đổi. Một khi họ đã học được rằng mình hoàn toàn bất lực để thay đổi tình hình, thì kèm theo đó họ cũng sẽ có những niềm tin mới để hợp lý hóa sự cam phận của mình. Những niềm tin mới này - tuy gây hại - nhưng lại rất logic, khiến cho họ không những không có động lực để thay đổi, mà còn có động lực để không thay đổi.

Đã có hằng hà sa số những bài viết giải thích những ngộ nhận phổ biến, và cũng đã có hằng hà sa số những dự án thay đổi nhận thức cộng đồng. Nhưng cuộc sống đã cho họ quá đủ trải nghiệm rồi nên họ mới thành ra như thế. Giờ muốn họ thực sự suy nghĩ điều ngược lại thì cần cho họ một sự trải nghiệm mới nhiều gấp đôi, gấp ba. Nên nếu chỉ dừng ở việc hy vọng cái hiểu đúng sẽ đủ khả năng cạnh tranh với cái hiểu sai, còn bản thân những thứ đang dung dưỡng cái sai thì không bị đả động đến, thì chỉ là chữa phần ngọn chứ không phải phần gốc.

Nhưng liệu ai sẽ là người đem lại trải nghiệm nhiều gấp đôi, gấp ba cho họ, khi xã hội vẫn hằng ngày có những ví dụ để tiếp tục khẳng định niềm tin tiêu cực đấy? Tại sao lại phải trông chờ vào những thứ ngẫu nhiên, khi ta hoàn toàn có thể tạo ra môi trường phù hợp cho họ? Và nếu không ta thì ai, khi ta mới là người hiểu rõ họ nhất và nhiều động lực nhất để giúp họ?

Nếu trong tâm trí bạn cũng có một người mà bạn rất muốn giúp họ thay đổi nhưng cảm thấy bế tắc, chúng tôi muốn mời bạn gia nhập Mạng lưới người thân, bạn bè của người có niềm tin tiêu cực để phối hợp cùng những người bạn khác. Đây là các hoạt động của nhóm:

1

Hỗ trợ 1-1 cho thành viên

2

Thảo luận các kiến thức liên quan đến sự tác động

3

Thành lập một cơ sở dữ liệu những người có tiềm năng và sẵn sàng trợ giúp nhau tác động đến cá nhân và cộng đồng người có niềm tin tiêu cực

Bạn thấy bài viết này thế nào?

Bấm sao để đánh giá nha!

Đánh giá trung bình: 3.7 / 5. Số lượt đánh giá: 3

Nếu bạn thấy bài này hữu ích

Bạn bè bạn cũng có thể thấy nó hữu ích

Mình rất tiếc nếu bạn thấy bài không có giá trị

Xin hãy nói cho mình biết phải cải thiện ở đâu

Leave a Reply